Tự Học Viết Tiếng Nhật Căn Bản Katakana
Lời nói đầu
Mọi người thường công nhận rằng các học viên tiếng Nhật thường tiến bộ nhanh hơn nếu được học viết tiếng Nhật ngay trong những giai đoạn đầu của quá trình học. Thật không may, đa số học viên thường cảm thấy e sợ trước việc phải học một số lượng lớn những ký tự có vẻ như rất phức tạp.
Sự phức tạp của các ký tự tiếng Nhật, dù vậy, lại là một sự hiểu lầm, vì cơ bản nhiều ký tự chỉ là một sự kết hợp của số lượng tương đối ít yếu tố cấu thành. Vấn đề này càng trở nên rõ ràng trong quá trình học viên làm quen với hai bộ vần, mỗi bộ gồm 46 ký tự, được gọi chung bằng cái tên kana, và khoảng hai ngàn ký tự kanji được dùng trong tiếng Nhật viết thông thường hiện nay.
Hai bộ vần Hiragana và Katakana là những ký tự ngữ âm thuần túy, có chức năng hầu như tương tự với những chữ cái trong các bảng chữ cái tiếng Việt hay tiếng Anh. Xét theo khía cạnh này thì kana hoàn toàn khác với các ký tự Kanji được tạo ra dựa trên những chữ viết ghi ý của Trung Hoa.
Bộ vần katakana chủ yếu được dùng để thể hiện những từ mượn (từ những ngôn ngữ khác tiếng Hoa), dù nó cũng được dùng để viết các tên thực vật và thỉnh thoảng được dùng để thay cho hiragana hoặc kanji để nhấn mạnh. Ở một số khía cạnh nào đó, việc sử dụng katakana trong tiếng Nhật tương đương với việc dùng chữ in nghiêng trong tiếng Anh. Những từ tượng thanh và những thành ngữ có tính biểu hiện khác thường được viết bằng katakana, dù cũng có thể dùng kiragana.
Vì katakana được dùng để viết những từ nước ngoài thường bao hàm những âm không có trong tiếng Nhật nên bộ vần katakana dạng viết có một số điểm bất quy tắc. Thay vì giới thiệu chi tiết những điểm bất quy tắc này, với cách biên soạn đơn giản sách chỉ ghi chú những điểm bất quy tắc khi chúng xuất hiện và cho phép người học trở nên quen thuộc với cách dùng của katakana bằng rất nhiều ví dụ thực hành.
Cả hai bộ vần hiragana và katakana thể hiện được mọi âm tiết trong tiếng Nhật dạng phát ngôn. Khác với kanji có thể được phát âm theo nhiều cách khác nhau tùy theo ngữ cảnh, cách phát âm của các ký tự kana hoàn toàn theo quy tắc. Dù vẫn có thể chỉ dùng hiragana thôi cũng đủ để viết tiếng Nhật nhưng người Nhật thường sẽ cảm thấy khó hiểu cách viết như vậy. Kanji được dùng để đảm bảo tính rõ ràng, tu từ và trực tiếp của ý nghĩa. Thường học sinh sẽ học viết bằng hiragana trước, rồi từ từ sẽ thay thế kanji vào những bài viết của mình trong quá trình học.
Học sinh Nhật Bản học các ký tự bằng cách viết, và đây thường được công nhận là phương cách hay nhất để nắm vững các ký tự.
Sách này được biên soạn sao cho những học viên trình độ nhập môn tiếng Nhật có thể làm quen với cách viết tiếng Nhật nhanh nhất. Do đó, mọi ưu tiên trong quá trình biên soạn sách đều tập trung vào vấn đề kích thích sự tham gia của học viên, với khối lượng đa dạng các câu và thành ngữ thực hành để củng cố cho hcoj viên về những ký tự đã học trong mỗi giai đoạn. Sách cũng tạo dễ dàng cho học viên bằng những ký tự màu xám nhạt theo nét chữ cho phép học viên nắm vững được cách viết, đường nét và sự cân bằng của mỗi ký tự.
Để tránh sự lặp lại, sách giới thiệu động từ ở dạng từ điển chứ không phải ở dạng -masu. Tuy nhiên, trong đa số trường hợp mọi người vẫn quen với cách viết dùng dạng -masu.
Sách này dùng hệ thống la-tinh hóa ký tự của Hepburn. Tuy nhiên cần nhớ rằng tiếng Nhật là một ngôn ngữ riêng biệt với một bộ âm tiết độc lập so với tiếng Việt hay tiếng Anh, và vì vậy nên mọi nỗ lực la-tinh hóa tiếng Nhật cũng chỉ đạt đến độ chính xác tương đối thôi.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét